Con
đường Quốc lộ 14, từ Pleiku đi Kontum còn tương đối an ninh cho những
chuyến xe đò và nhứt là xe nhà binh chạy ngược xuôi chở quân, đồ tiếp tế
nhiên liệu lương thưc cho những cánh quân, những đơn vị trú đóng vùng
Kontum Tân Cảnh, Benhet vào ban ngày trong thời điểm 1970- 1971
.
Từ
KonTum được nối dài cho đến Tân Cảnh vẫn còn là đường tráng nhựa rất
tốt, nhưng từ Tân Cảnh đi về hướng Căn Cứ Ben het chỉ là con đường rải
đá gồ ghề dằng xốc.
Đơn
vị tôi nằm ngay trên con đường dằng xốc này và điểm đặt biệt, vì địa
thế hiểm trở chật hẹp nên con đường xẽ đôi căn cứ ra làm hai, có nghĩa
là con đường chaỵ ngang chính giữa căn cứ. Đây là Căn Cứ Hoả Lực Dakto.
Căn
cứ Hoả Lực nằm trên đỉnh ngọn đồi thấp, phía dưới chân đồi có con suối
và chiếc cầu sắt bắt ngang uốn cong hai vòng trước khi lên đến đỉnh.
Pháo Đội của tôi từ Qui Nhơn tăng phái lên Vùng Dakto Tân Cảnh gồm có
sáu khẩu đại bác 105 ly yểm trợ trực tiếp cho Trung Đoàn 42 Bộ Binh
thuộc Sư Đoàn 22, chịu trách nhiệm lảnh thổ ở đây.
Nhưng
bổng nhiên tình hình chiến cuộc trở nên sôi động, nên mới có một lử
Đoàn Nhảy Dù tăng viện, và đã xãy ra Chuyện” Người Ở lại Charlie“, một
ngọn núi cao ngất cách xa tôi ngoài tầm đạn 105 ly. Đơn vị này có Pháo
Binh cơ hửu của Nhảy Dù yểm trợ.
Buổi
chiều trên căn cứ Hoả lực Dakto, đang thư thả ngắm trời mây sông núi
trong không khí “ không tiếng súng nổ “ trong chốc lát, thì từ Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 22 đang đặt tại Tân Cảnh, trong đó có Bộ chỉ
Huy Pháo Binh Sư Đoàn kèm theo đã ra lệnh cho tôi chuẩn bị“ thế lên
đường“.
Dân
Pháo Binh mà nghe lệnh“ Thế Lên Đường“ là phát chán vì phải dọn tất cả,
nặng nhứt là chất hết đạn đại bác lên xe, trung bình chừng hai ngàn
quả, lính các khẩu đội vác mệt nghỉ. Trời miền núi vùng Tam Biên ( ngả
ba biên giới Việt Miên Lào ) xuống nhanh và mau tối, tôi báo cáo“ Sẵn
sàng“ về Bộ Tư lênh Sư Đoàn, đầu máy bên kia bảo“ chờ”.
Trời
sẩm tối không nhìn thấy gì trước mặt, than ôi giờ này mà còn chờ thì
biết chừng nào mới Thế lên Đường đến vị trí mới chiếm đóng vị trí, rồi
tác xạ yểm trợ ngay cho các đơn vị bạn đang chạm địch? Gióng hướng súng
ban đêm là nổi cực hình cho Pháo Binh vì hạn chế tối đa tiếng động nhất
là ánh đèn pin.
Tôi
bốc máy thúc dục“ sao cho lệnh đi chưa”, dỉ nhiên là không nói bạch văn
mà phải dùng ám danh đàm thoại cho địch không biết. Bên đầu máy vẫn bảo
chờ. Tôi sốt ruột lắm, và cuối cùng vì lý do gì không biết từ Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn ra lệnh hủy bỏ vì điều động đơn vị 155 ly khác đến thế chổ
tôi sắp chiếm đóng.
Thế là khỏe re, nhưng phải cho lệnh Pháo Đội xuống đạn và quân dụng ở lại tại chổ, 1
giờ khuya đêm đó, tôi nhận lệnh yểm trợ tối đa cho căn cứ Phượng Hoàng (
căn cứ mà hồi chiều lệnh cho tôi di chuyển đến đó ). Đơn vị đại bác 155
ly của người bạn Lâm Xuân Thảo bị tràn ngập biển người sau nhiều đợt
địch pháo kích liên tục. Đơn vị của tôi bắn liên tục từ khuya cho tới tờ
mờ sáng thì được tin Pháo đội 155 ly bị“ xoá sổ“ nhiều người lính bị
bắt sống, Trung uý Lâm Xuân Thảo chết tại chổ nhưng không toàn thây vì
trận xáp lá cà của địch.
Tôi
bàng hoàng xúc động thương tiếc cho người bạn trước tôi một khoá và
cũng rùng mình nghĩ rằng Lâm Xuân Thảo đã chết thế mình. Tôi không hiểu
tại sao đến giờ phút sau cùng thì thay đổi lệnh không cho tôi thế lên
đường, mà là một đơn vị 155 ly đến đó để yểm trợ cho căn cứ 5 và 6 đang
bị áp lực địch vây .
Lâm
xuân Thảo chết không toàn thây nhưng vẫn lấy được xác, được tin Lâm
Xuân Thảo ra đi, làm tôi nghẹn cứng cổ họng, thương cho người bạn cùng
đi học một khoá Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị ngày nào. Vì là trong
Pháo Binh Sư Đoàn của chúng tôi chỉ có hai trung uý tham dự khoá này ,
nên rất thân nhau trong suốt khóa học.
Ngày
mãn khóa, Trường Chiến Tranh Chính Trị tổ chức buổi lể Sinh Nhật Tập
Thể vừa dùng để mãn khóa vừa để cho các khoá sinh biết cách thực hành
khi trở về đơn vị của mình. Buổi lể xong hết và dĩ nhiên trong hội
trường còn quá nhiều đèn cầy đã dùng để cắt bánh Sinh Nhật và thổi đèn,
cũng như vô vàn hoa tươi vươn vãi khắp hội trường.
Trong
khi chờ đợi nhà trường phát Sự Vụ Lệnh trở về đơn vị gốc, thì Lâm Xuân
Thảo nghịch phá, y bèn gom nhiều đèn cầy cắm xung quanh chiếc giường.
Thảo lấy hoa tuơi rãi dọc xung quanh mép giường và trên đầu giường cắm
một bình hoa thật to, chính giữa là tấm bảng viết vội“ Cố Đại Uý Nguyễn
Trãi”. Chính giữa giường là cái xắc đựng quân trang dài tròn to bằng
thân tôi và chiếc nón sắt của tôi thì hắn để trên đầu, lấy một tấm
poncho phủ kín từ nón sắt xuống đến tuí đựng quân trang, y chang một
thây người chết nằm đó.
Đèn
cầy xung quanh giường được thấp sáng rực xong xuôi hắn chạy ra hành
lang gọi tôi “ Mày vào xem cái này “. Tôi tưởng chuyện gì quan trọng, đi
theo Lâm Xuân Thảo vào bên trong phòng ngủ thì hởi ôi, tôi đọc được tên
tôi một tấm bảng hình chử nhật bằng cuốn vở học trò mở ra, tôi lạnh
toát cả người vì thấy một thi thể nằm đó, đèn cầy lấp lánh xung quanh
đầy hoa tươi. Tôi liên tưởng tới chuyện không may, như một điềm xấu sẽ
xãy ra cho tôi trong những ngày kế tiếp khi trở lại cuộc chiến.
Tôi
giận lắm, tôi biết ngay là thằng Thảo nó làm trò chơi này thật quá
đáng, tôi vừa hét vừa đá mạnh làm tung toé hết hoa và đèn cầy, tôi đạp
văng chiếc nón sắt cùng cái túi đựng quân trang rơi xuống giường rồi mặt
hầm hầm bỏ ra ngoài. Tôi cảm thấy lạnh xương sống và liên tưởng tới một
điềm xấu cho tôi khi trở về đơn vị.
Hành
động giận dữ của tôi tưởng đủ để cho nó hiểu tôi ghê sợ và phản đối
kịch liệt, ngõ hầu nó ân hận việc làm của mình. Nhưng không, tôi bỏ ra
hành lang hội trường cho bớt giận, một lúc sau tôi trở vào thì vẫn thấy
hình ảnh một xác người nằm trên giường, với đèn cầy thắp sáng trở lại
cùng với hoa đầy đặc xung quanh mép giường, và đặc biệt cái tấm bảng
viết“ Cố Đại Uý Nguyễn Trãi“ cũng được gắn trên đầu giường trở lại.
Những người bạn cùng khóa Chiến Tranh Chính Trị bu quanh chiếc giường và
cười sặc sụa về thành tích“ giỡn một cách vô ý thức này“.
Tôi
lại đá và hất tung chiếc giường một lần nữa, tất cả rơi vung vãi và tôi
hét lớn“ tôi không muốn người nào chơi như thế này nữa“ Thực tình tôi
bắt đầu sợ hình ảnh này vì linh tính sẽ không may cho tôi về sau trong
bước hành quân. Vẫn là những tiếng cười đắc thắng của đám bạn, tôi muốn
điên tiết …..
Giờ
đây tin Lâm Xuân Thảo đã vĩnh viển ra đi làm tôi xúc động mạnh, chuyện
này đáng lẽ là của tôi, sao lại Thảo chết thế ?? Hay là một điềm gở đã
ứng nghiệm của trò chơi trong trường Chién Tranh Chính Trị?.
Một
năm sau, cũng tại Căn Cứ Hoả Lực Dakto, năm 1972 Mùa Hè Đỏ Lửa, trong
đêm Cộng Quân ào ạt tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 42 trong đó có Bộ Tư
Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn có Đại Tá Lê Đức Đạt Tư Lệnh Sư Đoàn. Pháo đội
105 ly của tôi đã bắn liên tục từ 10 giờ đêm đến rạng sáng hôm sau, vì
khoảng cách gần mút tầm nên xử dụng thuốc nạp 7 là thuốc nạp tối đa, sự
giựt lùi của nóng súng rất mạnh làm cho càng súng cũng bị gãy một khẩu,
tôi bắn và theo dỏi trên hệ thống vô tuyến thì biết giờ nào các ông xếp
của mình rời hầm chỉ huy, giờ nào mất liên lạc và giờ nào địch quân tràn
ngập căn cứ nhờ những sĩ Quan Đề Lô bên ngoài lên tiếng trong máy.
Lử
Đoàn 2 Nhãy Dù đang ở vòng ngoài của Tân Cảnh, tôi mất liên lạc với cấp
chỉ huy trực tiếp của tôi, nên quay sang yểm trợ trực tiếp cho một cánh
quân Nhảy Dù gần Tân Cảnh. Tiếng người Sĩ Quan Đề Lô nhãy Dù gọi đơn vị
tôi tác xạ, khi tôi kiểm soát vị trí đứng (toạ độ điểm đứng của sĩ
quan này) thì thấy rất gần, sau khi điều chỉnh nhiều lần và loạt đạn
bắn hiệu quả chỉ còn cách ít hơn 50 mét (khoảng cách không an toàn và
không cho phép tác xạ vì quá gần quân bạn).
Tôi
đích thân gặp người Sĩ Quan Đề lô và nói“ không thể bắn cho anh được vì
quá gần quân bạ “. Người SQ Đề Lô ấy trả lời rất dõng dạc“ Anh cứ bắn
đi, bắn cho đến khi nào không còn nghe tiếng của tôi nữa thì coi như tôi
đã chết“. Câu nói rất anh hùng và khí tiết của một Sĩ Quan Pháo Binh hy
sinh thân mình để cứu đơn vị. Câu nói làm cho tôi nghẹn lại vài giây vì
xúc động, tôi không có sự chọn lựa nào hơn khi nghĩ đến những loạt đạn“
Bắn Hiệu Quả“ sẽ cứu được đại đơn vị, và cũng đang cầu xin an toàn cho
viên Sĩ Quan Đề Lô.
Sau
đó tôi gọi danh xưng của người này nhiều lần và không thấy tăm hơi gì
hết, tôi lặng người đi và nghĩ rằng anh ta đã chết. Lúc bấy giờ tôi mất
liên lạc hoàn toàn với các cấp chỉ huy của tôi từ phía Trung Đoàn 42 và
Pháo Binh Sư Đoàn. Tôi biết tất cả Bộ Tư Lệnh đã di tản ra ngoài và đang
đâu đó. Từ giờ phút này tôi thực sự cãm thấy bơ vơ chi lạ, giống như“
rắn mất đầu“. Tôi không biết phải làm gì ngoài tự phòng thủ căn cứ và
bản thân
Từ
trên ngọn đồi của Căn Cứ Dakto nhìn về hướng Tân Cảnh tôi thấy chiếc
hai chiếc phản lực đang nhào xuống, ngóc đầu lên liên tục, và rồi một
cột khói mịt mù bám theo một chiếc, chắc là bị dính hoả tiển SA7 của
địch?.
Khi
Bộ Tư Lênh đã bị tràn ngập thì cũng là lúc bọn VC quay mủi dùi sang căn
cứ của tôi mà dập bằng Dại Bác 130 ly. Tôi nghe tiếng depart rất rỏ và
xác định được hướng bắn từ đâu, nhưng nó cách tôi 18 cây số lận, còn
súng của tôi có phản pháo cũng chỉ gải ngứa vì chỉ có 11 cây số 100 mét.
Thế là cứ chịu trận ăn pháo địch mà không có một phản ứng nào.
Tất
cả hấm hố, đài Tác Xạ, hầm đạn đều trúng đạn của địch tan nát, hệ thống
truyến tin bị sập đổ, gãy cần ăng ten không còn liên lạc với ai được.
Bộ chỉ Huy một Tiểu Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ Pháo Binh cho tôi
cũng bị sấp và ông Tiểu Đoàn Trưởng đã bị thương.
Tôi
chưa biết xoay sở ra sao trong tình huống này, cộng quân bộ binh thì
chưa tiến tới gần Căn Cứ tôi. Tất cả lính pháo đội đều trú ẩn dưới hố cá
nhân mà chiều cao bằng với mỗi con người trừ cái đầu nhô lên để chiến
đấu cá nhân. Đơn vị Pháo Binh của tôi ai cũng được trang bị thêm một
khẩu M 72, trong lúc này rất cần thiết để chống xe tăng địch; trên miệng
hố cá nhân mỗi người đều có một khẩu M 16 và một khẩu M 72 chờ chiến xa
Cộng Quân tiến đến.
Sư
Đoàn Bắc việt nhất là đơn vị Pháo Binh địch đang có một Đề lô áp sát
đơn vị tôi, bọn này cũng tiết kiệm đạn ra phết, chỉ tác xạ khi nào có
người đi rên mặt đất sau khi san bằng căn cứ Dakto sau nhiều đợt pháo
kích bằng 130 ly; tôi đoán là Đề lô rất gần, gần sát nên họ nhìn chính
xác lắm. Cũng đã xế chiều, người nào cũng mệt mỏi và đói, đạn 130 ly
không còn nổ trên căn cứ, tôi leo lên khỏi miệng hố đi kiếm soát một
vòng xung quanh các hố cá nhân. Tôi gọi lớn Ban Hoả Đầu Vụ đem lương khô
cho tôi và cho lính còn đang dưới hố cá nhân; Binh Nhứt Nguyễn Văn An
dáng người lùn, mập không lanh lợi tay cầm gói gạo sấy đã đổ nước chạy
đến miệng hố cá nhân của tôi để trao cho tôi, lúc này tôi đã đi đến chổ
khác. Bọn Đề Lô Việt Công ma mãnh không kém, vừa thấy có người trên mặt
căn cứ là gọi pháo tiếp. Một tiếng nổ đạn depart từ một khu núi quen
thuộc từ sáng tới giờ phát ra, chúng tôi biết ngay là sẽ ăn đạn pháo 130
ly kế tiếp. Không ai bảo ai, Binh Nhứt An tự động nhảy xuống cái hố của
tôi trống đã có sẳn còn tôi thì nhảy vào hố khác cách đó chừng 100 mét (hố bỏ trống)
Loạt
pháo này chỉ chừng trên dưới một chục quả, sau đó ngưng bắn. Tôi chạy
thục mạng về hố của mình, thì hởi ôi phía dưới hố chỉ còn lại đôi giày
trận của An, hình hài Binh Nhứt An nát bấy nhừ y như bầm tiết canh vịt,
vì một quả đạn 130 ly rơi đúng xuống hố mà An núp, An đã chết thế cho
tôi trong giây phút này. Làm sao tin được một viên đạn bay theo chiều
hình cong parabol từ trên cao có thể rơt trúng phóc vô miệng một cái hố
cá nhân chỉ vừa vặn đúng cho một thân con người. Viên đạn rớt đúng ngay
thời điểm tôi đã rời chổ khác, và Nguyễn Văn An đã chết thay thế tôi.
Sát miệng hố có chiếc xe GMC 10 bánh đậu từ lâu dùng để phát điện cho hệ
thống truyền tin đánh“ mọrse “, chiếc xe đã hư nát lủng nhiều lổ đạn và
xẹp bánh từ những đợt pháo kích trước, giờ đây thịt da nhão nhoẹt nát
bấy và nhỏ như thịt bầm của An một phần được bắn lên và đang bám trên
thành cửa xe.
Tôi
lặng người đi và tưởng như trong mơ, tôi thực sự xúc động trước cái
chết của người lính thuộc cấp chết thế cho mình. Cái số của tôi chưa tới
số ??? Điều gì đã khiến cho tôi rời cái hố ? Một sự tình cờ xãy ra hay
có sự“ sắp xếp của bàn tay vô hình nào đó”???
Tránh
pháo kích địch một cách hiệu quả nhứt không gì bằng ẩn người trong hố
cá nhân, đạn rớt trước mặt hay sau lưng hố không bao giờ gây thiệt mạng.
Chưa bao giờ tôi gặp một trường hợp đạn pháo kích rớt chính xác xuống
miệng hố, điều gì đã khiến tôi rời khỏi cái hố cá nhân của riêng tôi?
Tim tôi đập mạnh hơn, tôi lặng người và TIẾC THƯƠNG CHO AN. Người đi
trong cuộc chiến thường hay tin tưởng vào SỐ MẠNG, hay là TRỜI KÊU AI
NGƯỜI ẤY DẠ, hoặc ĐẠN TRÁNH MÌNH CHỨ MÌNH KHÔNG THỂ TRÁNH ĐẠN.
Tâm
tư tôi bị giao động mạnh khi nhìn xuống hố, không còn một thứ gì có thể
nhận ra là con người , vì nó nát bấy như băm nhỏ, một viên đạn đại bác
130 ly làm sao có thể rớt ngay phóc vô một cái hố đường kính chỉ chừng
năm mươi centimet. Nếu như lúc đạn đang bay trong không trung, tốc độ
gió mạnh hơn, hay gió đổi chiều chỉ một chút cũng làm viện đạn lệch đi,
hay người xạ thủ địch quân giật cò chậm hơn 1/50 giây cũng sẽ làm viên
đạn lệch qua chổ khác vì sự quay của trái đất sẽ đổi chổ viên đạn rơi.
Nhiều
yếu tố để khiến một viên đại bác rơi trúng đích, nhưng có điều gì đã
khiên tôi bồn chồn đói bụng mà phải rời hố, để rồi một binh sĩ thuộc cấp
chết thế mình. Tôi nhắm mắt lại và lặng người không dám nhìn vào đáy
hố, nó chỉ còn rỏ nhất đôi giày trận của Binh Nhứt Nguyễn Văn An.
Trong
nổi hụt hẫng kèm theo lo âu, chưa biết phải làm gì, từ Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn Biệt Động Quân bảo vệ Căn Cứ chuyển cho tôi một cái lệnh, hệ thống
truyền tin gần và xa của đơn vị tôi coi như hoàn toàn tê liệt, chỉ còn
duy nhứt đơn vị bảo vệ Căn Cứ của tôi là chổ dựa trong lúc này .
Lệnh
của Trung Tướng Ngô Du Tư Lệnh Quân Đoàn cho tôi“ triệt thoái khỏi Căn
Cứ đi về Trại BENHET ngay bây giờ. Thì ra vẫn còn có người nghĩ đến tôi,
thực ra không phải nghĩ đến tôi, mà là nghĩ đến 6 khẩu đại bác thì đúng
hơn. Tôi không liên lạc trực tiếp với Quân Đoàn mà chỉ thi hành lệnh
qua trung gian của Biệt Động Quân Quân Khu 2. Pháo Binh của tôi mất tiêu
hết đâu rồi, đâu còn xếp lớn xếp nhỏ gì để liên lạc.
Tôi
trở lại Pháo đội và ra lệnh“ cấp tốc di tản khỏi nơi này“ Khi người Đề
Lô địch thấy lố nhố người xuất hiện chạy đi chạy lại trên mặt đất thì họ
bắt đầu khai hỏa trở lại, làm cho công việc chuẩn bị trở nên phức tạp
hơn. Chỉ móc được 5 khẩu đại bác vào những chiếc GMC nào còn chạy được
dù là bể bánh xe, hay bể kết nước. Phải bỏ lại một khẩu vì không còn
kịp.
Nếu
cố gắng kéo cho được 6 khẩu và đầy đủ phụ tùng thì tôi e sẽ có quân
nhân trúng đạn pháo kích. Tôi quyết định tự tay tôi rút khối kích hoả
của khẩu bỏ lại và ném ra xa giấu đi, làm vô hiệu không cho địch quân xử
dụng khẩu đại bác này khi họ tràn ngập.
Tôi
cất chiếc nón sắt ra khỏi đầu và cuối xuống cái hố, nơi có xác bầy nhầy
bị băm nhỏ như chào vĩnh biệt Binh Nhứt Nguyễn Văn An. Đạn pháo kích
địch vẫn tiếp tục rơi, tôi chạy thiệt nhanh lại đoàn xe đang chờ và
phóng hết ga về hướng Căn Cứ Ben Hét, một căn cứ đầu nảo của Biệt Động
Quân Biên Phòng của vùng rừng núi Tam Biên, đi về hướng BENHET tức là
không về hướng đồng bằng mà càng tiến gần với ngả ba biên giới Việt Miên
Lào.
Khi
đến BENHET xong , tôi gặp người Trung Tá Biệt Động Quân , Căn Cứ Trưởng
, ông ta bảo tự bố trí phòng thủ tạm và chờ sẽ có lệnh sau . . Khi mặt
trời khuất sau rặng núi, tôi quyết định dùng một chiếc GMC và lựa một
toán lính gan dạ , lanh lẹ cùng tôi chạy trở lại Căn Cứ Dakto để lấy
khẩu đại bác bị bỏ lại . Vì tôi là người dấu khối kích hỏa, biết chổ
nên tôi phải đi, và tôi cùng đi thì binh sĩ sẽ lên tinh thần.
Địch
quân không ngờ rằng có người trở lại nên không phản ứng kịp và chúng
tôi đã hoàn thành công tác lấy được khẩu đại bác trở về Ben Het . Ở đây
pháo đội không gióng hướng súng để tác xạ yểm trợ nữa, mà chỉ bắn trực
xạ phòng thủ vị trí, vì đêm nào cũng nghe tiếng xích của xe tăng địch
rú gầm xung quanh, Cả Pháo đội thức bét con mắt để trông chừng mà trực
xạ Phải tới ngày thứ tư mới có trực thăng câu đại bác và toàn bộ pháo
đội tôi từ Benhet về Kon Tum .
Không
phải Quân Đoàn thương tiếc đơn vị tôi mà cho trực thăng hai cánh quạt
đến bốc chúng tôi , mà vì cả Sư Đoàn vừa bị tan hàng không còn một khẩu
đại bác nào để tử thủ KonTum . Khi trực thăng đáp xuống là lúc đạn pháo
kích bắt đầu rơi tới tấp . Trực thăng không thể chờ mình được nên cũng
liều mạng móc súng , đạn 105 ly và dụng cụ . Coi như chơi trò ú tim hên
xui may rủi, nếu lỡ trúng đạn thì đành chịu.
Mỗi
lần chỉ đáp được một trực thăng vì xuống một lúc dể trúng đạn pháo kích
. Có tất cả 10 chuyến thì xong hết đơn vị . Chỉ khi nào trực thăng lên
đến độ cao an toàn thì mới biết mình thoát nạn.
Thời
điểm này là lúc Cộng Quân Bắc Việt đang vây KonTum chỉ còn có cái lỏm,
Trực thăng vừa đáp xuống thành Dapla là có dàn chào đạn của VC ngay.
Bọn nó ở đâu sẵn và pháo kích liên tục. Cái số của tôi may mắn nên
không phải làm sao cã.
Những
ngày gian khổ và nhiều nguy hiểm tại KonTum cũng qua đi khi có các đợn
vị Pháo Binh của Sư Đoàn 23 đến được , mà chỉ đến bằng người không thể
mang theo đại bác vì trực thăng không thể câu súng qua đèo ChuPao .
Không biết do ông lớn nào thương nghĩ tới , đã truyền lệnh cho tôi từ Bộ
Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn 23 , ra lệnh tôi bàn giao tất cả súng đại bác
lại cho nhân viên Pháo Binh Sư Đoàn 23 để chuẩn bị trực thăng vận về
Pleiku nhận súng ở đó và tái phối trí . (Tôi là dân Pháo Binh Sư Đoàn
22)
Gia
đình tôi từ quê cha sanh mẹ đẻ cho tới quê vợ không biết tin tức tôi ra
sao trong hai tháng . Ba tôi chạy ngược chạy xuôi hết đi coi bói ông
thầy này tới bà nọ để mong tin con. Cả một sư đoàn 22 và cả một Bộ Chỉ
Huy Pháo Binh Sư Đoàn của tôi tan nát, cũng không còn biết tôi thì làm
sao từ Nha trang và Sài Gòn biết được .
Khi
về đến Pleiku, đơn vị đã ổn định, tôi được đi phép đặc biệt về thăm
nhà. Tất cả “ gia tài “ quân ngũ của tôi để lại tại Căn Cứ Đệ Đức Bồng
Sơn, cũng bị tràn ngập, Căn Cứ mất, tôi cũng mất hết tất cả, nơi này
có hai ông Tiểu Đoàn Trưởng và Tiểu Đoàn Phó tiểu đoàn củă tôi cũng mất
tích và chết sau đó. Tôi không còn đồ đạt gì nên cứ mặc quần áo trận
lên xe đò về Nha trang .
Vừa
ngồi lên xe đò nhỏ từ Qui Nhơn đi Nha trang, một cô ngồì sát bên bảo “
anh anh, anh mặc đồ này khi vô tới Hảo Sơn, Vũng Rô , tuị nó chận và
bắt anh đó “. cô nói tiếp “để em đưa cái áo này cho anh mặc đở “ Tôi
nghĩ bụng “về tới đây còn gặp rắc rối “Thế là tôi cũng phải nghe lời
cô ấy. Vừa mặc xong, một bàn tay của một người đàn ông đứng tuổi ngồi
cạnh cô gái cho mượn áo cầm tay tôi mà không cần hỏi han giáo đầu chi
hết “Có phải anh vừa thoát một đại nạn lớn lắm phải không ? Tôi thấy
anh thoát chết là do một nguời nào đó khuất mặt họ cứu anh “.Tôi thấy
đúng ở chổ thoát đại nạn, nhưng do ai cứu thì tôi không biết, tôi nghĩ
thầm mà không trả lời .
Không
lẽ ông này thấy tôi mặc đồ lính rồi đoán vậy ? hay ông ta có bùa ngải
gì đây ? tôi tự hỏi mà không dám thố lộ . Ông ta tiếp “ tôi nói thực cái
mạng anh rất lớn, có một vong linh người Nử theo cứu anh, chứ không
thì anh không có ngồi đây “Tôi thấy đúng như trúng tim đen ở chổ may
mắn thoát chết, nhưng mà ai đã cứu mạng tôi thì không biết. Và rồi tôi
lẫm bẫm “cũng có thể lắm ….“
Tôi
về được tới nhà trong bất ngờ mà Ba Má tôi không hề biết. Mọi người
đều khóc, khóc vì sung sướng tôi đã về bằng xương bằng thịt ,mà có ông
thầy bói nào nói với Ba tôi là “ tôi không còn nữa, tan xác hết rồi “
Cái cảnh xum họp này coi thật là cãm động, cả nhà vui mừng hẳn lên.
Tối hôm đó sau khi cơm nước xong Ba Má tôi kể chuyện cho tôi nghe trong
lúc có các cô chú cũng có mặt cùng nghe. Ba tôi kể rằng : “ năm nào nhà
mình cũng muớn mấy ông ngoài Bình Định cứ vào sau mùa gặt thì đào đất
ruộng xung quanh nhà dùng xe cút kít đẩy đất lên bồi đất xung quanh nhà
cho cao để trồng cây ăn trái. Họ ăn ngủ tại nhà mình và trả lương khoán
Khi nào làm xong hết việc thì họ đi nơi khác, làm bảy ngày một tuần
tối ngủ ở đây, Ba tôi vừa nói vừa chỉ chổ ngủ của ông ấy .
Có
một buổi tối nọ sau khi ăn xong như thường lệ, cũng ngồi nói chuyện
bâng quơ thì bỏng nhiên ông ta bụm hai bàn tay rồi vuốt mặt, Thả tay ra
thì thấy mặt đỏ rần như Trương Phi . Ông ta rung người lắc lắc đầu mấy
cái rồi nhìn thẳng vào mặt Ba tôi mà nói “ Sao nhà Ngươi đẻ ta ra mà bỏ,
không ngó ngàng gì tới ? Nhà ngươi có còn nhớ vào một buổi sáng chừng
tám chín giờ đẻ ta ở gốc keo rồi chôn ở đó không ? Nhà Ngươi không có
đặt tên, không có bàn thờ cho ta . Nhưng giờ ta không còn ở đây nữa ,
ta ở trên cao lắm, Ta có hai người anh đang trong nguy hiểm, và chính
ta đã cứu một người anh đó. Ba Má tôi rợn tóc gáy rất là sợ, vì sao
ông này nói trúng y chang sự việc mà ông ta không là người trong gia
đình , ông ta không thể nào biết được chuyện riêng tư này đã xãy ra mấy
chục năm trước . (chuyện cái bào thai bị sẫy)
Ba
Má tôi nhớ lại , vào một buổi sáng, Má tôi đi tiểu ngoài hàng rào keo
cách xa nhà chừng vài chục thước sát bờ ruộng ; trong lúc bà mang thai
ba tháng . Bà đã để lọt cái thai ra ngoài , coi như sẫy thai . Ba tôi
vội lấy cái nồi gọ bằng đất, một loại nồi nhỏ chỉ nấu cơm cho một người
an , bỏ cái thai trong đó và đem chôn cũng ngay gốc cây keo bà vừa tiểu
.
Vì
Ba tôi nghĩ rằng cái thai mới có ba tháng , còn quá nhỏ nên không quan
tâm . và không hề quan tâm đến nữa. Đó là đứa em Gái kế tôi . Chuyện đã
mấy chục năm , nay được một ông lạ hoắc kể ra , làm sao không làm kinh
ngạc mọi người. Sau đó Ba Má tôi làm một cái “ trang “để thờ đứa nhỏ mà
không để chung với bàn thờ chính giữa nhà thờ Ông Bà và đặt tên cho nó .
Em
Gái tôi nói lúc nào cũng theo sát tôi để phù hộ độ mạng khi xãy ra nguy
hiểm . Tôi nghe kể lại cũng thấy rợn da gà và liên tưởng tới chuyện tôi
được lệnh di chuyển súng đến Căn Cứ Phượng Hoàng mà rồi đổi lệnh để cho
Trung Uý Lâm Xuân Thảo chết thế không toàn thây .
Tôi
nhớ đến chuyện Binh Nhứt Nguyễn Văn An đã thế chổ trong hố cá nhân của
tôi để rồi thịt xương bị nổ tung và và bằm như tiết canh . Tôi thở ra và
nghĩ không ngờ vẫn còn thế giới vô hình đâu đây . Tôi không biết phải
làm gì với em gái tôi để gọi rằng đền ơn cứu mạng tôi . Và kể từ đó tôi
rất tin tưởng CON NGƯỜI TA CHẾT ĐI VẪN CÒN LINH HỒN . cũng như tôi tin
CON NGƯỜI TA SỐNG CHẾT ĐỀU CÓ SỐ .
Người
chở dất cho nhà tôi sau khi báo cho Ba Má tôi biết những điều như trên
thì lấy hai tay đập vô mặt mình mấy cái rồi trở lại bình thường . Ba Má
tôi có hỏi “ hồi nãy giờ anh nói gì và có biết chuyện gì ? “Ông ta nói
không nhớ không biết gì hết .
Câu
chuyện riêng tư của gia đình tôi thuộc về tâm linh , có thể vô lý mà
nghe ra đều cho rằng huyền thoại khó có thể tin sự thực . Nhưng tôi chắc
chắn 100% là sự thực . Có điều này nữa là một cái bào thai dù chỉ ba
tháng tuổi , vẫn có linh hồn .
Vùng
Dakto Tân Cảnh Ben Hét coi như mất luôn vào tay địch cho đến năm 1975 ,
chỉ còn giử được KonTum . Cũng năm ấy 1972 , Sư Đoàn 22 Bộ Binh cùng
với Liên Đoàn Biệt Động Quân ồ ạt tái chiếm ba Quận Bắc Bình Định là
Hoài Ân , Bồng Sơn Tam Quan, Có lúc dàn trận cả 52 khẩu đại bác trong
rừng dừa Vạn An để bắn TOT ra vùng đất địch (T O T là Time On Target),
Chỉ trong hai giờ tác xạ không ngưng nghỉ , các đồi núi trơ xuơng chỉ
còn đất với đá mà không có cây cối nữa .
Pháo
đội tôi chiếm đóng đồi Vạn An, Cứ sáng sáng năm giờ là Pháo Binh Địch
pháo kích căn cứ tôi , mà hễ bị pháo kích là bắt buộc phải phản pháo.
Tôi chạy ra khẩu đội ra lệnh phản pháo thì lính mới dám ngóc đầu lên vì
địch pháo rát quá . . Tôi đứng ngay giữa hai càng súng ra lệnh nạp đạn
trực xạ vì súng địch chỉ cách chừng 1000 mét Một quả đạn súng cối 82 ly
của địch rớt xuyên qua làm rách áo giáp và xẽ nát thịt bắp đùi người xạ
thủ nạp đạn rồi rớt xuống trước mặt tôi mà không nổ . Người lính ngã
xuống. May mắn, nếu quả đạn ấy nổ thì tôi cũng banh xác rồi .
Vào
thời điểm đầu tháng 3 năm 1975 Cộng quân đã chiếm Ban mê Thuột , sau đó
cắt đứt quốc lộ 19 từ Pleiku xuống Qui Nhơn , Pháo đội tôi đóng tại
chân đèo Mang Giang gần Lăng Mai Xuân Thưởng . Chúng pháo kích suốt ngày
đêm để khống chế đơn vị tôi không cho yểm trợ Trung Đoàn Bộ Binh .
Những chuyến xe tiếp tế đạn 105 ly dồn dập mỗi ngày có tới 20 chiếc ,
một lần tôi leo lên chiếc GMC đứng trên 200 thùng đạn đại bác để kiểm
soát số đạn chở đến bị sai loại đạn , những quả 82 ly của địch rót đến
tới tấp , có một quả rơi ngay dưới chân tôi và nằm trên những thùng gổ
đạn 105 mà không nổ . Thật là huyền diệu, và may mắn
.
Những
ngày cuối cùng của Phù Cát Bình Định , tôi bị một quả B40 bắn trúng
chiếc xe tôi trước khi qua cầu. Xe trúng đạn lật làm năm người trong xe
bị thương trong đó iôi với sáu mãnh đạn B40, (mà giờ đây sau 38 năm nó
vẫn còn trong cánh tay). Sau chừng 30 phút , một người lính bò lên
băng vết thương cho tôi thì bị một viên AK , anh ta ngã xuống chết ngay
.
,
Phản
ứng tự nhiên của tôi, ngóc đầu lên xem từ hướng nào bắn người lính
chết, tôi liền bị ba viên AK khác bắn từ sau ót xuyên ra phía trước mặt. Có cả ba lổ đạn đi vô khác nhau , nhưng chỉ có một lổ cho ba viên đạn
đi ra nên nó phá cái mặt tôi khá lớn . Đây là một điều thần diệu , chỉ
cần ba viên đạn ấy nhích ra một chút xiú thì sẽ chạm tới óc và chắc chắn
tôi đã chết ngay . Tôi cũng tin rằng đứa em gái tôi đã cứu tôi trong
giờ phút đó .
Những
người lính và Sĩ Quan đơn vị khiêng tôi trên đoạn đường dài từ Cầu
Cương vào phi trường Phù Cát . Khi vào bên trong phi trường , có chiếc
trực thăng HU-1B , họ bằng lòng cho tôi đi trong khi phi Trường đang
khói lửa ngập trời . Ông Trung Uý Pháo Đội Phó của tôi cùng người Trung
Sĩ khẩu Trưởng khiêng tôi bỏ lên trực thăng đã có sẵn 34 người lính Bộ
Binh trên ấy . Chiếc trực thăng cất cánh chừng 10 mét thì rớt xuống và
chặt đứt đôi người trung uý pháo đội Phó và trung sĩ khẩu trưởng , vì
khi khiêng tôi bỏ lên trực thăng thì vẫn còn đứng dưới đất . Cánh quạt
trực thặng lúc rớt xuống đã chém. đứt đôi hai người mà không tìm thấy
phần trên từ ngực bay đi đâu .
Sáng hôm sau tôi bị bắt làm tù binh , nhưng họ thấy tôi bị thương nặng quá nên bỏ tôi nằm tại chổ trong phi trường
Trong
trại tù Hoàng Liên Sơn. Bắc Việt, một ngày chúa nhật nghỉ lao động ,
có người bạn tù lớn tuổi, cầm tay tôi coi chỉ tay và nói chắc như đinh
đóng cột: “ mạng của anh rất lớn ,nhiều lần sắp chết mà không chết, vì
có một vong linh của kẻ khuất mặt che chở, Nó hiện lên rành rành đây
nè “ . Tôi không tin điều ấy là có thực , nhưng qua cuộc đời trong lính
trãi qua những sự kiện thoát hiểm nguy như vậy làm tôi phải tin rằng
điều ấy có thực .
Anh
em bạn tù tối đến, vừa đói, vừa buồn, đau khổ không biết ngày nào
trở về nhà, nên thường hay tổ chức kể chuyện cho quên hết đói và ưu
phiền, Họ thấy tôi có những vết đạn còn mang trong người , nên hỏi thăm
và bảo tôi kể chuyện “ Những Ngày Cuối Cùng cuộc Chiến của tôi “ Tôi đã
kể lại tỉ mỉ câu chuyện bị thương và rớt máy bay và những ngày gjan nan
sau đó . Sáng hôm sau Trên Bộ Chỉ Huy Trại Tù cho người gọi tôi lên “
làm việc “ Họ khủng bố tinh thần từ 8 giờ sang đến 5 giờ chiều với kết
luận “ còn hàm ơn luyến tiếc chế độ cũ “
Từ
ngày ra khỏi tù về với gia đình tôi luôn tự tin rằng số tôi không chết
sớm được , và có lẽ “ Chỉ có Trời hại mới chết , người hại không chết
Đây là những điều có thật tôi viết lại nhằm nói lên rằng “ Có Thê giới
Vô Hình, và Con Người Ta chết có số “ Bây giờ bên VN họ phá thai nhiều
quá, tôi thấy tội cho những hài nhi ấy quá chừng
Nguyễn Trãi